Parallel Verses
- Kinh Thánh Hiện Đại - Tất cả anh chị em tín hữu chúng ta đều được kết hợp chặt chẽ với Chúa Cứu Thế, và xây nên Đền Thánh của Đức Chúa Trời.
- 新标点和合本 - 各(或作“全”)房靠他联络得合式,渐渐成为主的圣殿。
- 和合本2010(上帝版-简体) - 靠着他整座房子连接得紧凑,渐渐成为在主里的圣殿。
- 和合本2010(神版-简体) - 靠着他整座房子连接得紧凑,渐渐成为在主里的圣殿。
- 当代译本 - 整座建筑的各部分都靠祂连接在一起,逐渐成为主的圣殿。
- 圣经新译本 - 整座建筑都靠着他连接配合,渐渐增长成为在主里面的圣所。
- 中文标准译本 - 在基督耶稣里,全部建筑互相连接,渐渐成为在主里的圣殿;
- 现代标点和合本 - 各 房靠他联络得合式,渐渐成为主的圣殿,
- 和合本(拼音版) - 各 房靠他联络得合式,渐渐成为主的圣殿。
- New International Version - In him the whole building is joined together and rises to become a holy temple in the Lord.
- New International Reader's Version - The whole building is held together by him. It rises to become a holy temple because it belongs to the Lord.
- English Standard Version - in whom the whole structure, being joined together, grows into a holy temple in the Lord.
- New Living Translation - We are carefully joined together in him, becoming a holy temple for the Lord.
- Christian Standard Bible - In him the whole building, being put together, grows into a holy temple in the Lord.
- New American Standard Bible - in whom the whole building, being fitted together, is growing into a holy temple in the Lord,
- New King James Version - in whom the whole building, being fitted together, grows into a holy temple in the Lord,
- Amplified Bible - in whom the whole structure is joined together, and it continues [to increase] growing into a holy temple in the Lord [a sanctuary dedicated, set apart, and sacred to the presence of the Lord].
- American Standard Version - in whom each several building, fitly framed together, groweth into a holy temple in the Lord;
- King James Version - In whom all the building fitly framed together groweth unto an holy temple in the Lord:
- New English Translation - In him the whole building, being joined together, grows into a holy temple in the Lord,
- World English Bible - in whom the whole building, fitted together, grows into a holy temple in the Lord;
- 新標點和合本 - 各(或譯:全)房靠他聯絡得合式,漸漸成為主的聖殿。
- 和合本2010(上帝版-繁體) - 靠着他整座房子連接得緊湊,漸漸成為在主裏的聖殿。
- 和合本2010(神版-繁體) - 靠着他整座房子連接得緊湊,漸漸成為在主裏的聖殿。
- 當代譯本 - 整座建築的各部分都靠祂連接在一起,逐漸成為主的聖殿。
- 聖經新譯本 - 整座建築都靠著他連接配合,漸漸增長成為在主裡面的聖所。
- 呂振中譯本 - 靠着他、各部建築都互相聯接,漸漸高大,成為在主裏的聖殿堂。
- 中文標準譯本 - 在基督耶穌裡,全部建築互相連接,漸漸成為在主裡的聖殿;
- 現代標點和合本 - 各 房靠他聯絡得合式,漸漸成為主的聖殿,
- 文理和合譯本 - 諸宇於彼中結構、漸成主之聖殿、
- 文理委辦譯本 - 四宇搆合、築為主之聖殿、
- 施約瑟淺文理新舊約聖經 - 全屋賴彼而得聯絡、漸成主之聖殿、
- 吳經熊文理聖詠與新經全集 - 石上廣廈、經營正殷、結構日精、而規模日宏、駸駸乎將因主而成為聖殿矣。
- Nueva Versión Internacional - En él todo el edificio, bien armado, se va levantando para llegar a ser un templo santo en el Señor.
- 현대인의 성경 - 머릿돌이 되신 그리스도 예수님 안에서 건물 전체가 서로 연결되어 점점 거룩한 성전이 되어가고
- Новый Русский Перевод - На Нем крепится все здание, поднимающееся все выше и становящееся святым храмом в Господе.
- Восточный перевод - На Нём крепится всё здание, поднимающееся всё выше и выше и становящееся святым храмом, посвящённым Повелителю.
- Восточный перевод, версия с «Аллахом» - На Нём крепится всё здание, поднимающееся всё выше и выше и становящееся святым храмом, посвящённым Повелителю.
- Восточный перевод, версия для Таджикистана - На Нём крепится всё здание, поднимающееся всё выше и выше и становящееся святым храмом, посвящённым Повелителю.
- La Bible du Semeur 2015 - En lui toute la construction s’élève, bien coordonnée, afin d’être un temple saint dans le Seigneur,
- リビングバイブル - 私たち信じる者は、聖なる神殿を目指す建物として、共にキリストにあって組み合わされて成長していくのです。
- Nestle Aland 28 - ἐν ᾧ πᾶσα οἰκοδομὴ συναρμολογουμένη αὔξει εἰς ναὸν ἅγιον ἐν κυρίῳ,
- unfoldingWord® Greek New Testament - ἐν ᾧ πᾶσα οἰκοδομὴ συναρμολογουμένη, αὔξει εἰς ναὸν ἅγιον ἐν Κυρίῳ,
- Nova Versão Internacional - no qual todo o edifício é ajustado e cresce para tornar-se um santuário santo no Senhor.
- Hoffnung für alle - Durch ihn sind die Bauteile untereinander fest verbunden und wachsen zu einem Tempel des Herrn heran.
- พระคริสตธรรมคัมภีร์ไทย ฉบับอมตธรรมร่วมสมัย - ในพระองค์ ทุกส่วนของอาคารทั่วทั้งหมดต่อกันสนิท และประกอบกันขึ้นเป็นวิหารอันศักดิ์สิทธิ์ในองค์พระผู้เป็นเจ้า
- พระคัมภีร์ ฉบับแปลใหม่ - พระองค์เป็นผู้ทำให้ทั้งเรือนเชื่อมต่อกันและขยายต่อเติมขึ้นเป็นวิหารอันบริสุทธิ์แด่พระผู้เป็นเจ้า
Cross Reference
- Ê-xê-chi-ên 40:1 - Đầu tháng tư năm thứ hai mươi lăm của cuộc lưu đày—vào năm thứ mười bốn sau khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ—tay Chúa Hằng Hữu đặt trên tôi.
- Ê-xê-chi-ên 40:2 - Trong một khải tượng của Đức Chúa Trời, Chúa đem tôi về nước Ít-ra-ên, đặt tôi trên một ngọn núi cao. Từ đó, tôi có thể thấy về phía nam có một thành phố lớn.
- Ê-xê-chi-ên 40:3 - Ngài đem tôi đến gần hơn, tôi thấy một người có gương mặt sáng như đồng đứng bên cổng. Tay người ấy cầm một dây đo và một cây thước đo.
- Ê-xê-chi-ên 40:4 - Người ấy nói với tôi: “Hỡi con người, hãy nhìn và lắng nghe. Hãy chú tâm vào mọi điều Ta sẽ chỉ cho con. Vì mục đích ấy mà con được đem về đây. Khi con trở lại cùng dân tộc Ít-ra-ên, con hãy nói với chúng những điều con thấy.”
- Ê-xê-chi-ên 40:5 - Tôi thấy có một bức tường bao bọc bên ngoài Đền Thờ. Người ấy lấy một thước dài 3,2 mét rồi đo tường, và tường có bề dày là 3,2 mét và cao 3,2 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:6 - Kế tiếp, người đến cổng phía đông. Người ấy trèo lên bảy bậc thang và đo ngưỡng cửa; nó rộng 3,2 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:7 - Mỗi bên của lối đi vào có xây phòng canh gác. Mỗi phòng có hình vuông là 3,2 mét, và khoảng cách giữa chúng là 2,7 mét. Ngưỡng cửa bên trong dẫn đến cuối lối đi là 3,2 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:8 - Người cũng đo hành lang của phía trong cổng.
- Ê-xê-chi-ên 40:9 - Nó có chiều ngang là 4,2 mét, với bốn trụ dày 1,1 mét. Hành lang ở tại phía trong của lối đi, mặc hướng về Đền Thờ.
- Ê-xê-chi-ên 40:10 - Mỗi bên hành lang có ba phòng canh gác. Mỗi phòng đều có cùng kích thước, và các bức tường cũng được chia cùng kích thước.
- Ê-xê-chi-ên 40:11 - Người đo chiều rộng của lối vào cổng là 5,3 mét và chiều dài là 6,9 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:12 - Phía trước mỗi bên phòng canh gác có một rào cản cao 0,53 mét. Mỗi phòng hình vuông dài 3,2 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:13 - Sau đó, người đo bề rộng của lối vào, đo khoảng cách giữa phía sau tường đến mặt trước phòng canh gác; khoảng cách này là 13,3 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:14 - Người cũng đo những bức tường được chia dọc theo hành lang đến ở sân trong, khoảng cách này là 31,8 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:15 - Khoảng cách từ lối vào đến tận cuối hành lang là 26,5 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:16 - Các phòng và những bức tường dọc theo hành lang, bên trong đều có cửa sổ tò vò, trong hẹp ngoài rộng. Hành lang cũng vậy. Các bức tường được trang trí bằng hình lá kè.
- Ê-xê-chi-ên 40:17 - Sau đó, người mang tôi đi qua hành lang để vào sân ngoài của Đền Thờ. Tại đó, tôi thấy có rất nhiều đá lót dọc theo tường của sân ngoài, và có ba mươi căn phòng xây dọc theo lối đi.
- Ê-xê-chi-ên 40:18 - Lối đi trải đá chạy dọc theo cổng, cùng chiều dài của cổng. Đây được gọi là đường đá thấp.
- Ê-xê-chi-ên 40:19 - Rồi người đo chiều ngang của sân ngoài Đền Thờ giữa mặt ngoài và mặt trong của lối đi; khoảng cách là 53 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:20 - Người đo cổng hướng về phía bắc như cổng ở phía đông.
- Ê-xê-chi-ên 40:21 - Ở đây cũng vậy, mỗi bên cũng có ba phòng với những bức tường được chia đều và hành lang. Tất cả có cùng kích thước giống như bên cổng đông. Lối ra vào 26,5 mét và rộng 13,3 mét giữa phía sau tường đến mặt trước phòng canh gác.
- Ê-xê-chi-ên 40:22 - Cũng có các cửa sổ, hàng lang, và các vật trang trí hình lá kè như bên hành lang cửa đông. Có bảy bậc thang dẫn lên cửa ra vào, và hành lang nằm bên trong tại cuối lối đi.
- Ê-xê-chi-ên 40:23 - Tại cổng bắc, cũng như bên cổng đông, có một cái cổng dẫn đến sân trong của Đền Thờ đối diện với lối đi cổng ngoài. Khoảng cách giữa hai cổng là 253 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:24 - Rồi người dẫn tôi về phía nam, tôi thấy có một cái cổng hướng về phía nam. Người đo trụ, hành lang, kích thước mỗi thứ đều giống như ở các cổng kia.
- Ê-xê-chi-ên 40:25 - Cũng có các cửa sổ dọc các bức tường và hàng lang ở lối vào. Hành lang này cũng dài 26,5 mét và rộng 13,3 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:26 - Cũng có bảy bậc thang, hành lang đối diện và mỗi bên tường dọc hành lang cũng trang trí bằng các hình lá kè.
- Ê-xê-chi-ên 40:27 - Sân trong cũng có một cổng hướng về phía nam. Khoảng cách giữa cổng trong và cổng ngoài là 53 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:28 - Sau đó, người đem tôi vào sân trong và qua cổng phía nam. Người đo, và kích thước cũng giống như các cổng kia.
- Ê-xê-chi-ên 40:29 - Kích thước của các phòng canh gác, các bức tường, hành lang đều giống như ở các hướng khác. Cũng có các cửa sổ dọc các bức tường và hành lang. Lối ra vào cũng dài 26,5 mét và rộng 13,3 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:30 - (Hành lang dẫn vào sân trong có kích thước là 4,2 mét và 13,3 mét).
- Ê-xê-chi-ên 40:31 - Hành lang vào sân ngoài về phía nam, các cột trụ cũng trang trí hình lá kè, và có tám bậc thang dẫn lên.
- Ê-xê-chi-ên 40:32 - Rồi người dẫn tôi đi dọc theo sân để vào sân trong, về hướng đông. Người đo, và kích thước cũng giống như ở các hướng khác.
- Ê-xê-chi-ên 40:33 - Kích thước của các phòng canh gác, những bức tường, và hành lang đều giống như ở các hướng khác, hành lang và lối vào đều có cửa sổ. Hành lang cũng dài 26,5 mét và rộng 13,3 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:34 - Hành lang hướng về sân ngoài. Các cột trụ đều trang trí hình lá kè, và có tám bậc thang dẫn lên lối vào.
- Ê-xê-chi-ên 40:35 - Sau đó, người dẫn tôi đi vòng qua cổng bắc hướng về sân trong. Người đo nó, kích thước cũng giống như ở các hướng khác.
- Ê-xê-chi-ên 40:36 - Kích thước của các phòng canh gác, các bức tường, hành lang đều giống như những cổng khách và các cửa sổ cũng được sắp xếp như vậy. Hành lang có chiều dài là 26,5 mét và rộng 13,3 mét.
- Ê-xê-chi-ên 40:37 - Hành lang hướng ra sân ngoài, và các cột trụ đều trang trí hình lá kè. Có tám bậc thang dẫn lên.
- Ê-xê-chi-ên 40:38 - Có một căn phòng bên cạnh hành lang của lối vào dùng để rửa thịt sinh tế trước khi đem dâng trên bàn thờ.
- Ê-xê-chi-ên 40:39 - Mỗi bên của hành lang này có hai cái bàn để giết các sinh tế dâng làm tế lễ thiêu, tế lễ chuộc tội, tế lễ chuộc sự mắc lỗi.
- Ê-xê-chi-ên 40:40 - Bên ngoài hành lang cạnh lối vào, mỗi bên của bậc thang dẫn lên cổng bắc cũng có hai bàn nữa.
- Ê-xê-chi-ên 40:41 - Như thế, có tất cả tám bàn—bốn bàn trong phòng, bốn bàn ngoài phòng—để làm nơi mổ xẻ và chuẩn bị các sinh tế.
- Ê-xê-chi-ên 40:42 - Ngoài ra còn có bốn bàn đá để chuẩn bị cho tế lễ thiêu, mỗi bàn dài 0,8 mét, dài và rộng bằng nhau, và cao 0,53 mét. Trên những bàn này được sắp các con dao làm thịt sinh tế và các dụng cụ khác.
- Hê-bơ-rơ 3:3 - Chúa Giê-xu đáng được vinh dự hơn Môi-se, chẳng khác nào người xây nhà được tôn trọng hơn ngôi nhà.
- Hê-bơ-rơ 3:4 - Con người xây cất nhà cửa, còn Đấng sáng tạo vạn vật chính là Đức Chúa Trời.
- Xuất Ai Cập 26:1 - “Hãy dùng mười tấm màn vải gai mịn làm Đền Tạm. Trên màn có thêu hình thiên thần bằng chỉ xanh, tím, và đỏ một cách tinh vi khéo léo.
- Xuất Ai Cập 26:2 - Mỗi tấm màn dài 12,9 mét, rộng 1,8 mét.
- Xuất Ai Cập 26:3 - Nối năm tấm màn lại với nhau thành một tấm lớn. Vậy, trại gồm hai tấm lớn, mỗi tấm một bên.
- Xuất Ai Cập 26:4 - Kết vòng chỉ xanh dọc theo đường biên của hai tấm lớn,
- Xuất Ai Cập 26:5 - mỗi bên năm mươi vòng, đối diện nhau.
- Xuất Ai Cập 26:6 - Làm năm mươi cái móc bằng vàng để cài vào các vòng. Như vậy, hai tấm lớn được kết lại thành một cái trại làm Đền Tạm.
- Xuất Ai Cập 26:7 - Dệt mười một bức màn bằng lông dê để phủ lên trên nóc Đền Tạm.
- Xuất Ai Cập 26:8 - Mỗi tấm dài 13,8 mét, rộng 1,8 mét.
- Xuất Ai Cập 26:9 - Nối năm tấm màn lông dê lại với nhau, còn lại sáu tấm cũng nối lại. Riêng tấm thứ sáu được gập đôi lại, phân nửa cho phủ xuống trước Đền.
- Xuất Ai Cập 26:10 - Kết năm mươi vòng dọc theo đường biên của hai tấm lông dê lớn.
- Xuất Ai Cập 26:11 - Nối hai tấm này lại với nhau bằng năm mươi móc đồng.
- Xuất Ai Cập 26:12 - Nửa tấm màn lông dê còn dư lại sẽ cho phủ xuống phía sau Đền Tạm.
- Xuất Ai Cập 26:13 - Chiều dài dư ra của các tấm màn lông dê sẽ phủ xuống hai bên hông đền, mỗi bên 0,46 mét.
- Xuất Ai Cập 26:14 - Phủ lên trên nóc trại một lớp da chiên nhuộm đỏ. Bên trên lớp này lại có một lớp da dê.
- Xuất Ai Cập 26:15 - Vách Đền Tạm làm bằng ván cây keo.
- Xuất Ai Cập 26:16 - Mỗi tấm ván dài 4,6 mét, rộng 0,69 mét, dựng thẳng đứng.
- Xuất Ai Cập 26:17 - Mỗi tấm sẽ có hai cái mộng để ghép vào các lỗ mộng.
- Xuất Ai Cập 26:18 - Dùng hai mươi tấm ván làm vách phía nam Đền Tạm.
- Xuất Ai Cập 26:19 - Dưới mỗi tấm ván, làm hai lỗ mộng bằng bạc. Vậy, phía nam có bốn mươi lỗ mộng.
- Xuất Ai Cập 26:20 - Vách phía bắc cũng gồm hai mươi tấm ván.
- Xuất Ai Cập 26:21 - Dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng bạc, cộng bốn mươi lỗ mộng.
- Xuất Ai Cập 26:22 - Vách phía tây cũng gồm sáu tấm ván.
- Xuất Ai Cập 26:23 - Tại góc của vách phía sau này, dựng thêm hai tấm ván nữa.
- Xuất Ai Cập 26:24 - Hai tấm này sẽ được ghép vào nhau bằng móc cài ở dưới và ở trên.
- Xuất Ai Cập 26:25 - Vậy, vách phía sau có tất cả tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bạc, mỗi tấm hai lỗ.
- Xuất Ai Cập 26:26 - Làm thanh ngang cho vách Đền Tạm cũng bằng gỗ keo,
- Xuất Ai Cập 26:27 - mỗi phía có năm thanh ngang; phía sau, về hướng tây cũng có năm thanh ngang.
- Xuất Ai Cập 26:28 - Thanh chính giữa nằm ngay giữa vách, chạy dài từ đầu này đến đầu kia của Đền Tạm.
- Xuất Ai Cập 26:29 - Bọc vàng các tấm ván vách và các thanh ngang. Làm các vòng vàng để xỏ thanh ngang.
- Xuất Ai Cập 26:30 - Vậy, con hãy theo kiểu mẫu Ta cho xem trên núi này mà dựng Đền Tạm.
- Xuất Ai Cập 26:31 - May một bức màn bằng vải gai mịn. Dùng chỉ xanh, tím, và đỏ thêu hình chê-ru-bim trên màn một cách tinh vi khéo léo.
- Xuất Ai Cập 26:32 - Treo màn này trong đền. Trên bốn trụ gỗ keo bọc vàng có bốn móc vàng. Trụ được dựng trên bốn lỗ trụ bằng bạc.
- Xuất Ai Cập 26:33 - Màn được móc vào các móc vàng. Phía trong màn là nơi đặt Hòm Giao Ước. Màn sẽ phân chia Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh.
- Xuất Ai Cập 26:34 - Hòm Giao Ước có nắp chuộc tội đậy bên trên được đặt ở Nơi Chí Thánh.
- Xuất Ai Cập 26:35 - Bên ngoài màn, đặt cái bàn và chân đèn đối diện nhau, bàn về phía bắc, chân đèn về phía nam.
- Xuất Ai Cập 26:36 - Bức màn cửa đền may bằng vải gai mịn, dùng chỉ xanh, tím, và đỏ thêu tinh vi khéo léo.
- Xuất Ai Cập 26:37 - Màn được treo bằng năm móc vàng trên năm trụ cây keo bọc vàng, trụ được dựng trên lỗ trụ bằng đồng.”
- Ê-xê-chi-ên 42:12 - Các cửa của phòng ở phía nam cũng vậy. Có một cửa ở đầu lối đi. Lối đi chạy song song theo bức tường kéo dài và phía đông cho người ta có thể vào phòng.
- Thi Thiên 93:5 - Lạy Chúa Hằng Hữu, luật pháp Chúa không hề dời đổi. Vương quyền Ngài, lạy Chúa Hằng Hữu, là thánh mãi đến đời đời.
- 1 Các Vua 6:7 - Đá dùng trong công tác xây cất này đều được chuẩn bị tại hầm đá, cho nên trong lúc cất Đền Thờ, không có tiếng búa, rìu, hay tiếng của một dụng cụ bằng sắt nào.
- Ê-phê-sô 4:13 - Nhờ đó, chúng ta được hợp nhất, cùng chung một niềm tin về sự cứu rỗi và về Con Đức Chúa Trời—Chúa Cứu Thế chúng ta—và mỗi người đều đạt đến bậc trưởng thành trong Chúa, có Chúa Cứu Thế đầy dẫy trong tâm hồn.
- Ê-phê-sô 4:14 - Nhờ đó, chúng ta không còn khờ dại như trẻ con, trí óc không còn nông nổi, dễ đổi thay theo các giáo lý mới lạ của người lừa dối khéo dùng thủ đoạn xảo trá sai lầm.
- Ê-phê-sô 4:15 - Nhưng chúng ta luôn luôn sống theo chân lý và truyền bá chân lý trong tình yêu thương, để ngày càng tăng trưởng đến mức giống Chúa Cứu Thế về mọi phương diện. Chúa Cứu Thế là Đầu; Hội Thánh là thân thể.
- Ê-phê-sô 4:16 - Dưới quyền lãnh đạo của Chúa, mọi bộ phận trong thân thể kết hợp và nâng đỡ nhau. Mỗi bộ phận đều làm trọn chức năng riêng, và cả thân thể lớn mạnh trong tình yêu thương.
- 1 Cô-rinh-tô 3:9 - Chúng tôi là bạn đồng sự phục vụ Đức Chúa Trời, còn anh chị em là ruộng, là nhà của Ngài.
- 2 Cô-rinh-tô 6:16 - Làm sao hòa đồng đền thờ của Đức Chúa Trời với thần tượng? Vì anh chị em là đền thờ của Đức Chúa Trời Hằng Sống. Như Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ sống trong họ và đi lại giữa họ. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ và họ sẽ làm dân Ta.
- 1 Cô-rinh-tô 3:16 - Anh chị em không biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời sống trong anh chị em sao?
- 1 Cô-rinh-tô 3:17 - Ai hủy hoại đền thờ của Đức Chúa Trời sẽ bị Ngài tiêu diệt. Vì đền thờ của Đức Chúa Trời phải thánh khiết và anh chị em là đền thờ của Ngài.